Đánh mất, tìm về cùng với sự mong manh của tình yêu
Thứ Năm, 11/08/2022“Khám phá ra một thứ gì đó luôn là một điều bất ngờ. Trẻ em, những đứa trẻ giỏi tìm tòi – có lẽ chủ yếu là vì thế giới vẫn còn quá mới mẻ đối với chúng nên chúng không thể làm ngơ nó – hiểu cảm giác này và tự nhiên sẽ cảm thấy rất thích thú.”
“Không sợ hãi là điều mà tình yêu tìm kiếm,” Hannah Arendt đã viết như thế trong tuyệt phẩm đầu tay về tình yêu và mất mát. “Mà cái không sợ hãi đó chỉ tồn tại trong cái bình tĩnh không thể bị lay chuyển bởi những sự kiện được mong đợi sẽ xảy ra trong tương lai…Vậy nên chỉ một thời điểm thích hợp duy nhất là hiện tại, là bây giờ.”
Đó là một quan sát tuyệt vời, một sự thật cơ bản là chúng ta có thể thấy – và được lưu trữ chỉ bằng cái nhìn thoáng qua – trong những khoảnh khắc hiếm hoi của sự thuần khiết, tan biến trong phút chốc vào những gì mà Borges biết là đúng về bản chất của con người: đó là khoảng thời gian mà bản chất của chúng ta hình thành.
Là những sinh vật được cấu thành bởi thời gian, chúng ta sống ở hiện tại, ở quá khứ và ở tương lai cùng một lần, liên tục bị lay chuyển bởi nỗi sợ hãi, niềm hi vọng, tất cả những sự lo âu, những dự đoán, đều là cái giá chúng ta trả cho hồi hải mã hùng vĩ của mình – đó là chiến thắng của một ý thức có khả năng tham chiếu ký ức và kinh nghiệm của nó trong quá khứ, có khả năng dự đoán mục tiêu và mong muốn của nó ở tương lai, và có khả năng nhận thức nỗi tuyệt vọng sâu thẳm nhất và cả những giấc mơ tươi sáng nhất.
Điều này, như Elizabeth Gilbert quan sát sau khi đánh mất tình yêu của đời mình, tại sao tình yêu và sự mất mát lại có một vài điểm tương đồng – trong khi một thứ là “loại năng lực không thể tiên đoán hay kiểm soát,” cái còn lại thì “đến và đi vô định… không theo kế hoạch của ta, hoặc mong muốn của ta [và] sẽ làm bất cứ điều gì, bất cứ khi nào nó muốn.”
Từ đó nảy sinh ra một phương trình cơ bản mà chúng ta chấp nhận nó như một hàm số của sự sống, như một tiếng vang của các định luật cơ bản. Chúng ta chấp nhận nó một cách vô thức, hoặc vô thức nhưng miễn cưỡng, nhưng nó là một sự hỗn độn được định sẵn không kể sự đồng ý của ta: Chúng ta yêu, rồi chúng ta đánh mất. Chúng ta đánh mất những người thân yêu của mình – có thể đó là cái chết hoặc sự chia rẽ của tương lai - hoặc chúng ta đánh mất chính mình. (Đây cũng là lý do tại sao hoa làm chúng ta cảm động.)
Nhưng nếu chúng ta đủ may mắn, đủ cứng đầu, chúng ta yêu, rồi chúng ta mất thì sự mất mát sẽ lại mở ra nhiều tình yêu hơn – tình yêu luôn khác biệt, bởi vì mỗi tình yêu đều không thể lặp lại và cũng không thể thay thế – ở bên kia của đau buồn; tình yêu không tưởng từ vùng đất cằn cỗi của sự mất mát, tình yêu mà không có mất mát, một khi tìm ra, sẽ khiến thế giới cảm thấy choáng ngợp.
Bởi vì đây là hai trải nghiệm tiêu tốn nhất và cũng là to lớn nhất của con người, những cái mác mà chúng ta cố gắng chất chứa và phân loại nhất định là quá nhỏ - như với tình yêu, và với mất mát. (Đây là những gì Joan Didion đã ghi lại theo quan sát của cô ấy rằng "đau buồn, khi nó xảy đến, sẽ không như ta mong đợi.")
Tất cả những điều này, cùng với sự tinh tế của nó trở nên sống động hơn bao giờ hết trên các trang giấy của Lost & Found của tác giả Kathryn Schulz - một tập hồi ký cá nhân, lại vừa như cuộc tìm hiểu hiện sinh về hai vũ trụ vĩ đại (được và mất) của đời người.
Sau khi nghe chính cô ấy nói "Tôi mất cha vào tuần trước" – cha cô, người cô đã họa một bức chân chân dung đầy trìu mến và ngưỡng mộ như thể "một phần của Socrates* và một phần của Tevye*," một nhân vật hào sảng, tựa một vị thần với "giọng nói bùng nổ, ngữ âm nặng nề, một bộ óc ghê gớm, một bộ râu của giáo sĩ Do Thái, một cái bụng của ông già Noel và cử chỉ của Người Vitruvian ” – Schulz nghĩ ngợi:
“Có lẽ vì tôi vẫn còn đang chìm đắm trong những ngày đầu tang tóc đau thương, khi mà thế giới vốn đang quen thuộc trở nên lạ lẫm và khó có thể chấp nhận được, tôi thực sự bị choáng ngợp, thứ cảm giác chưa từng có trước đây, bởi sự kỳ lạ của cụm từ này. Rõ ràng là không phải là kiểu cha và tôi lạc nhau trong một buổi dã ngoại, hay biến mất như một tài liệu quan trọng trong văn phòng lộn xộn. Và khác với những cách nói xiên xẹo khác về cái chết, cách nói này chẳng có vẻ gì là tù túng hay sáo rỗng. Nó có vẻ dễ hiểu, ai oán, rầu rĩ và cô đơn, như chính nỗi đau vậy. Ngay từ lần đầu tiên tôi nói về nó, vào ngày hôm đó qua điện thoại, tôi có cảm giác như thể một thứ gì đó mà tôi có thể sử dụng, như cách một người dùng xẻng hoặc một cái kéo chuông: rung rinh và lạnh lẽo, trong đó chứa đựng một chút tuyệt vọng và một chút cam chịu, chính xác hơn là sự bối rối và hoang vắng khi mất đi người thân của mình.”
Cuối cùng cô nhận ra rằng từ gốc của từ này thực chất cũng là một từ tương tự miêu tả trải nghiệm mất mát:
Động từ "to lose" ban đầu có nghĩa là chìm trong đau khổ; liên quan đến từ "lorn" trong "forlorn." Xuất phát từ một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là diệt vong, và xuất phát từ một từ thậm chí còn cổ hơn có nghĩa là tách biệt hoặc cắt rời. Mãi sau này, vào thế kỷ thứ mười ba, mới xuất hiện ý thức hiện đại về việc đặt đồ nhầm vị trí; một trăm năm sau đó, "to lose" có nghĩa là không thắng. Vào thế kỷ XVI, chúng ta bắt đầu “to lose” tâm trí; đến thế kỷ XVII, tới lượt trái tim của chúng ta. Nói cách khác, vòng tròn của những gì chúng ta có thể “to lose” vốn bắt đầu với cuộc sống của mỗi người và không ngừng mở rộng kể từ đó. Cảm giác mất mát đối với tôi sau khi cha qua đời: giống như việc một thế lực không ngừng gia tăng phạm vi hoạt động, dần dần xâm chiếm, mở rộng địa hình.
Tác phẩm nghệ thuật từ The Heart and the Bottle bởi Oliver Jeffers — một câu chuyện ngụ ngôn minh họa về tình yêu và sự mất mát
Khía cạnh khó hiểu nhất của đau buồn là bản chất phân dạng của nó - một thân cây vĩ đại của sự mất mát, khi mà cành cây đâm vào thực tại tầm thường, trở nên vụn vỡ thành trăm mảnh mất mát cho đến khi chúng ta nhìn lại thế giới (như câu thơ đáng yêu của Lisel Mueller đã nói) "như thể mọi thứ tồn tại là để mất đi, và vì mất đi mà trở nên quý giá”. Những thứ nhỏ nhặt mà chúng ta đánh mất trở nên quý giá đến mức chúng ta bật khóc, vì cuốn sách rơi khỏi giỏ xe đạp trên đường về nhà, cái cành cây tầm thường kéo theo thân cây chẳng đủ sức để chống chọi. Đó là một trải nghiệm phổ quát, mà Schulz thu được thông qua thi pháp tuyệt vời trong tâm trí đặc biệt của cô ấy:
“Giống như một dạng tình yêu bị rối loạn chức năng, mà ở một mức độ nào đó, đau buồn không có ranh giới; Hiếm khi trong lúc vấp ngã khó khăn ấy, tôi có thể phân biệt được nỗi đau khổ của mình với những mất mát trong nỗi buồn về cha mình.
[…]
Đây là bản chất tham lam, thiết yếu của sự mất mát: không phân biệt, nó bao gồm cái thông thường và hệ quả, cái cụ thể và cái trừu tượng, đơn giản là sai chỗ và sẽ biến mất vĩnh viễn. Chúng ta thường sẽ ngó lơ phạm vi thực sự của nó nếu có thể, nhưng trong khoảng thời gian sau khi cha tôi qua đời, tôi không thể ngừng nhìn vào thực hiện, nơi nơi đều là dấu vết của những mất mát trong quá khứ và tương lai trước mắt.”
Cô ấy trải qua nỗi đau cũng vào thời điểm mà tất cả chúng ta, bất kể bản chất của sự mất mát cá nhân đó là gì, đang cùng nhau vượt qua cái mà các nhà khoa học ngày nay gọi là “đau buồn sinh thái” - chỉ một thế kỷ rưỡi sau khi sinh thái học ra đời - dựa theo mô hình phân dạng [fractal]:
“Bản chất của thế giới là phù du, các sông băng và sinh vật trong hệ sinh thái chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, tốc độ nó thay đổi nhanh như cách thời gian trôi đi, như thể những người còn sống tới ngày nay đã được phép chứng kiến sự đổi thay này từ góc độ bi thảm của vĩnh hằng. Mọi thứ đều mong manh, mọi thứ đều có vẻ dễ bị tổn thương; ý niệm về sự mất mát bủa vây tôi, một sự tồn tại bị ẩn dấu mà chỉ xuất hiện khi ta đau buồn.
Những bông hoa dại được ép từ khu thảo mộc của Emily Dickinson, bao gồm cả những loài hiện đang có nguy cơ tuyệt chủng hoặc đã tuyệt chủng.
Bởi vì mọi thứ bất chợt trở nên thật mong manh - hay đúng hơn, bởi vì mất mát bất ngờ cho ta biết rằng chúng ta thực ra là “loài sinh vật mong manh” - đau buồn tự biến nó trở thành một loại keo cố gắng gắn kết những mảnh vụn vỡ của thế giới ta quen thuộc. Trong một đoạn văn dưới cái nhìn sâu sắc và nhạy cảm hiếm có, về việc những khía cạnh nào của sự mất mát là nghịch lý nhất và bị suy diễn nhiều nhất, cô ấy viết:
“Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người ít nhất đều có chút sợ hãi khi không còn đau buồn. Tôi biết vì tôi đã từng. Tuy nhiên, nỗi buồn của chúng ta có thể khủng khiếp đến mức nào, chúng ta hiểu rằng nó được tạo ra từ hình ảnh của tình yêu, rằng nó có chung những đặc điểm của người mà chúng ta thương tiếc. Có thể có một ngày trong đời bạn quỳ gối bởi một chiếc mũ lưỡi trai xanh đã phai màu hay một chiếc túi tote đầy dụng cụ đan móc hay âm thanh của một bản concerto cho piano của Brahms… Vậy thì, một phần của điều khiến ta đau buồn lại trở nên thu hút, đó là vì nó dường như đã cho chúng ta điều mà cuộc sống không còn có thể cho được nữa: một sợi dây kết nối liên tục, mạnh mẽ về mặt cảm xúc với người đã khuất. Và do đó, thật dễ dàng để nhận thấy rằng một khi món quà ảm đạm đó không còn nữa, thì người chúng ta yêu bằng cách nào đó cũng sẽ ra đi nhiều hơn (hàm ý tương tự câu: một người chỉ thật sự mất đi khi không còn ai nhớ về họ nữa).
Và đó là mối quan hệ kỳ lạ của chúng ta với sự đau buồn. Trong những ngày đầu, chúng ta ước rằng nó kết thúc; sau này, chúng ta sợ rằng nó sẽ xảy ra. Và cuối cùng khi sự đau buồn bắt đầu dịu đi, ta dường như cũng không cảm thấy tốt hơn là bao, mà có khi lại giống như cảm giác mất mát gì đó.”
Suy nghĩ về việc những mất mát sâu sắc nhất khiến ta đau đớn như thế nào “không phải vì họ bất chấp thực tế mà vì họ tiết lộ điều đó,” cô ấy nói thêm:
“Một trong nhiều thứ mà sự mất mát dạy ta là cách điều chỉnh cảm giác về quy mô, cho chúng ta thấy thế giới thực sự: khổng lồ, phức tạp và bí ẩn đến nỗi không có gì lớn hơn để mất - và ngược lại, cũng không có nơi nào nhỏ hơn để cho một cái gì đó bị mất ở đó… Giống như kinh hãi và đau buồn, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, mất mát có khả năng thay đổi kích cỡ của chúng ta so với môi trường xung quanh ngay lập tức; chúng ta không nhỏ đi và thế giới cũng không lớn hơn khi một thứ quan trọng biến mất.
Chính sự điều chỉnh cảm giác khắc nghiệt về việc trở thành trung tâm, có năng lực và quyền lực đã khiến cho những tổn thất dù là nhỏ nhặt cũng khó chấp nhận được. Đánh mất một thứ gì đó là một hành động vô cùng khiêm tốn. Nó buộc chúng ta phải đương đầu với những giới hạn của tâm trí… Nó buộc chúng ta phải đương đầu với những giới hạn của lý chí: thực tế là chúng ta bất lực trong việc bảo vệ những thứ chúng ta yêu thích trước sự thay đổi và cơ hội. Liminal Worlds by Maria Popova.
Trên hết, nó buộc ta phải đương đầu với giới hạn của sự tồn tại: thực tế là cho dù sớm hay muộn, bản chất của mọi thứ hoặc là biến mất hoặc là diệt vong.”
Tất nhiên, điều này đối nghịch với đặc điểm cơ bản nhất của ý thức chúng ta: là không có khả năng phân giải phủ định của chính nó. Cố gắng hết khả năng trong thực tế ảo của tâm trí, ở một cấp độ sinh vật sâu xa nào đó, chúng ta chỉ đơn giản là không thể hiểu được thực tế của sự không tồn tại, khoảng trống cuối cùng, cái mà Emily Dickinson gọi là "sự trôi dạt vô hạn."
Nhật thực toàn phần năm 1878, một trong những bản vẽ thiên văn mang tính đột phá của Étienne Léopold Trouvelot.
Bởi vì không thời gian là cái võng mà trong đó mọi thứ tồn tại, nhưng ý thức được tạo thành từ không thời gian và là khung cảnh của trí tưởng tượng, để tưởng tượng sự không tồn tại tuyệt đối của ý thức - của người khác hoặc của chính chúng ta - chúng ta cũng phải tưởng tượng sự vắng mặt hoàn toàn của không gian và thời gian. Sự bất lực của ta trước điều đó được phản ánh rõ rệt trong cách nói về cái chết: "pass away" [qua đời], như thể một người được đưa đến một nơi nào đó khác chứ không phải hoàn toàn không còn tồn tại; để "run out of time" [hết giờ], như thể thời gian vẫn tồn tại đối với người chết, một chiều không gian mà họ tình cờ bị bỏ quên theo một vectơ dọc chỉ tới nơi khác.
Không một nơi nào mà không có không gian khác khác chỉ đơn giản là nó nằm ngoài tầm nắm bắt của ý thức con người mà thôi.
Nhận thấy được điều này, Schulz định vị bản năng sáng tạo đó trong dòng văn hóa Thung lũng của những thứ đã mất [the Valley of Lost Things] - một trong bảy thung lũng mà các nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết dành cho trẻ em năm 1901 của L. Frank Baum - Dot and Tot of Merryland - ghé thăm sau khi một chiếc thuyền chạy đưa họ rời khỏi Vùng đất xứ Oz. Cô ấy viết:
“Mặc dù nó được đặt nhiều tên khác nữa, nhưng Thung lũng của những điều đã mất đã ám ảnh trí tưởng tượng chúng ta trong nhiều thế kỷ… trong mọi bối cảnh từ tự truyện đến khoa học viễn tưởng.
[…]
Một phần khiến nó trở nên hấp dẫn là vì phù hợp với trải nghiệm thực tế của chúng ta khi mất đồ: khi chúng ta không thể tìm thấy nữa, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thấy rằng nó đã đi đến một nơi nào đó mà không thể tìm thấy được. Nhưng cũng có một vài ý kiến cho rằng những đồ đạc đã mất đó không thể tìm thấy chủ nhân ban đầu nữa, thì ít nhất cũng chúng cũng nên tìm thấy nhau, quây quần bên nhau như những linh hồn trong bardo hoặc những người họ hàng xa trong một cuộc đoàn tụ gia đình. Những thứ chúng ta đánh mất được phân biệt bởi chúng không còn hiện diện ở vị trí ta đã biết; dẫu thông minh đến mức nào, rõ ràng là hài lòng biết bao… Đây có thể là khía cạnh thứ nhất của Thung lũng của những thứ đã mất: nó ám chỉ sự kỳ lạ của loại mất mát mà ta có thể nhìn thấy, giống như đổ một chiếc hộp lộn xộn xuống sàn. Trong tâm trí tôi, đó là một nơi tối tăm, đầy bút và mực, truyện tranh và thê lương như một bức vẽ của Edward Gorey: quần áo trôi vô định, những chiếc ô chất thành đống như những con dơi ngủ đông, một con hổ Tasmania đang say sưa gặm nhấm cuốn tiểu thuyết thất lạc của Hemingway trong miệng, các dòng sông băng co lại một cách mờ mịt dần trở thành vũng nước, Lockheed Electra của Amelia Earhart vụt sáng trên mặt đất, không khí xung quanh đầy bóng ma của những ý tưởng ban đêm không được viết ra và biến mất vào sáng mai. Chính quần thể kỳ lạ về mặt phân loại này, những đôi giày đến linh hồn của loài pterodactyls, đã khiến cho ý tưởng về một nơi như vậy trở nên đầy mê hoặc. Nội dung của nó có một sự thống nhất và ý nghĩa chỉ dựatrên một điểm chung duy nhất là bị mất đi, một loại quốc tịch rộng lớn, như “American”
Bức họa từ The Osbick Bird by Edward Gorey
Nhưng trong khi Thung lũng của những thứ đã mất đang ở tận cùng của nỗi buồn - “những thứ chúng ta yêu thích bị trục xuất khỏi nó, và bản thân chúng ta cũng bị trục xuất khỏi nó” - thì phản chiếu lại nỗi u sầu lại là niềm vui sướng ngất ngây khi tìm thấy mọi thứ. Schulz viết:
“Khám phá ra một thứ gì đó luôn là một điều bất ngờ. Trẻ em, những đứa trẻ giỏi tìm tòi – có lẽ chủ yếu là vì thế giới vẫn còn quá mới mẻ đối với chúng nên chúng không thể làm ngơ nó – hiểu cảm giác này và tự nhiên sẽ cảm thấy rất thích thú.” Việc tìm kiếm luôn là một phần thưởng và đôi khi đầy phấn khích: một cuộc hội ngộ với một cái gì đó cũ hoặc một cuộc gặp gỡ với một cái gì đó mới, một cuộc gặp gỡ vui vẻ giữa chúng ta và một số bí ẩn hoặc gì đó mất tích trước đây của vũ trụ.”
Trong một lãnh thổ nào đó trong trí tưởng tượng chung của chúng ta, dường như có một nơi tương tự mà chúng ta có thể gọi là Thung lũng của những thứ đã tìm thấy, rải rác số điện thoại bị lãng quên, thời gian đi dạo vào buổi chiều, bức ảnh chụp người cha hai mươi tuổi sánh vai tươi cười rạng rỡ bên mẹ ở Biển Đen. Tìm kiếm, cũng là một niềm vui cụ thể - niềm vui đơn giản khi tìm thấy thứ mà chúng ta đã đánh mất từ lâu, hoặc tìm thấy thứ mà chúng ta không biết là đã tồn tại, các nhánh từ niềm vui thích hiệu chỉnh lại thực tế lớn lao, toàn năng và biến đổi hoàn toàn đó. Chúng tôi gọi đó là tình yêu.
Mất mát cũng thế, tình yêu cũng vậy: Ở đây, các phép ẩn dụ của chúng ta được dệt nên từ không gian, thời gian, nói lên khả năng chúng ta không thể suy nghĩ và cảm nhận về nó - chúng ta nói về "tìm thấy tình yêu", như thể tình yêu được đặt tại một địa điểm khác biệt cho đến khi (và đây là một thước đo thời gian khác) chúng ta tình cờ đi lang thang, điều mà E.E. Cummings đã ghi lại trong chỉ một dòng duy nhất: "tình yêu là một nơi chốn."
Nơi đó chính xác là nơi Schulz tìm thấy chính mình không lâu sau cái chết của cha. Cô ấy gặp (trên phố Main trong một thị trấn nhỏ, một cách tình cờ) và kết hôn (với cha mẹ còn sống của hai bên và sự hiện diện buồn vui lẫn lộn khi vắng mặt cha cô ấy: "một loại tưởng niệm thông thường, một ngọn nến tôi không phải thắp sáng bởi vì nó luôn tỏa sáng với ông ấy ”) tình yêu của đời mình - một người phụ nữ mà cô ấy yêu thương vượt qua vực thẳm của những khác biệt bề mặt giữa họ, những khác biệt trong quá khứ mà cô ấy có thể không đào sâu, mất mát không thể định hình lại thế giới của cô ấy bằng cách phá vỡ nền tảng của thực tế quen thuộc để tạo ra không gian cho cái chuyện không thể xảy ra, không gian cho những người xa lạ mà từ thời không đế không thể tưởng tượng.
Bức họa từ The Osbick Bird by Edward Gorey
Nửa sau của Lost & Found giống như một bài thiền về việc tìm kiếm thứ quý giá nhất của con người - thứ không bao giờ là vật sở hữu - vì nó là một bức thư tình gửi cho vợ của cô ấy, kết thúc bằng một bài thiền tuyệt đẹp về cách những trải nghiệm song sinh này chiếu sáng trung tâm sự thật của cuộc sống:
“Đó là tất cả những gì chúng ta có, khoảnh khắc này với thế giới. Khoảnh khắc này không dài lâu, bởi vì chẳng có gì kéo dài mãi mãi. Entropy, tỷ lệ tử vong, sự tuyệt chủng: toàn bộ kế hoạch của vũ trụ bao gồm sự mất mát, và bất kể chúng ta tìm thấy bao nhiêu trên đường đi, cuộc sống vẫn trở thành một tài khoản tiết kiệm đảo ngược mà cuối cùng chúng ta bị cướp đi mọi thứ. Những ước mơ và kế hoạch và công việc của chúng ta, đầu gối, lưng và những kỷ niệm; chìa khóa nhà, chìa khóa xe hơi, chìa khóa tới vương quốc, và chính vương quốc này: dù sớm hay muộn, tất cả đều trôi vào Thung lũng của những điều đã mất.
[…]
Điều đó không có gì lạ hoặc đáng ngạc nhiên; vì nó vốn là bản chất không thể thay đổi của sự vật. Sự ngạc nhiên là tất cả trong hiện hữu ở đây. Như con rùa trong ao, ý nghĩ trong tâm trí, ngôi sao trên trời, người lạ trên đường Main… Đối với tất cả những điều này, mất mát, dường như chỉ lấy đi, lại như thêm phần đóng góp. Bất kể mất đi điều gì, đối tượng bạn cần hay người bạn yêu, thì những bài học sau đó sẽ luôn giống nhau. Sự mất mát nhắc nhở chúng ta để ý, nhất thời để nâng niu, mong manh để phòng thủ. Mất mát là một loại lương tâm bên ngoài, thúc giục chúng ta tận dụng tốt hơn những ngày hữu hạn của mình. Chuyến vượt biển của chúng tôi là một chặng đường ngắn ngủi, nhưng là tốt nhất để làm chứng cho tất cả những gì chúng tôi thấy: tôn vinh những gì chúng tôi thấy cao quý, chăm sóc những gì chúng tôi biết là cần sự quan tâm của chúng tôi, nhận ra rằng chúng tôi có mối liên hệ không thể tách rời với tất cả những điều đó, kể cả những gì chưa đến với chúng tôi, cũng bao gồm cả những gì đã biến mất. Chúng tôi ở đây để theo dõi, chứ không phải để giữ lại.”
Tác giả: Maria Popova
Dịch giả: Huyền My - Nguồn: Tâm lý học tuổi trẻ






