Họ đến từ đâu, lúc nào?
Thứ Sáu, 14/03/2008Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cũng như tâm thần hoc và tâm lý học, thì đồng tính luyến ái không là một căn bệnh và mãi mãi nó sẽ không là căn bệnh.
Vào thời phồn vinh của hai nền văn minh lớn Hy lạp và La Mã cổ đại, đồng tính luyến ái là một hình thức tình dục hồn nhiên không che giấu. Theo thời gian và biến chuyển chính trị, nền văn hóa này bị mai một vì sự hủy diệt có hệ thống bởi những bạo quyền dựa trên đa số.
Những tài liệu còn sót lại chứng tỏ vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên đã có một nền văn hóa đồng tính nữ tại đảo Lesbos qua thơ văn của nữ thi sĩ Sappo. Có lẽ vì vậy mà người nữ đồng tính được gọi là Lesbian.
Ngoài Platon và Socrate lừng danh, đại đế Alexandre (356-323 trước công nguyên) là một vị vua đẹp trai anh hùng chinh phục Ba Tư và Ai Cập, tạo một đế quốc rộng lớn sát tận biên giới Ấn Độ. Hoàng đế Jules Cesar (100-44 trước công nguyên) cũng là người lưỡng tính luyến ái.
Xã hội cổ Hy Lạp đã từng khuyến khích tình dục giữa nam nhân và thanh thiếu niên trai, để người trẻ có thể học hỏi từ những người từng trải. Bộ kinh Kamar Sutra của Ấn Độ được xem như là sách giáo khoa về tình dục đầu tiên trên thế giới, trong đó cũng không thiếu sót hành động tình dục đồng giới xảy ra từ 3.000 – 4.000 năm trước thế hệ chúng ta.
Tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Trung Hoa, những huyền thoại về liên hệ giữa các Samurai Nhật Bản đều có biểu hiện tình dục đồng giới… Điều này đặc biệt xảy ra vào thời Tokugawa (1600-1857), khi phần lớn Samurai tập trung ở những thành phố lớn như Edo (Tokyo bây giờ), những nơi có ít phụ nữ. Có một nền văn học rất lớn nói đến “giá trị quan trọng về đạo đức của quan hệ tình dục nam nam của những Samurai”. Những tuyển tập truyện ngắn như Nanshoku ookagami (“Tấm gương lớn của tình yêu nam giới”) của Ihara Saikaku, tuyển tập thơ và truyện như Iwatsutsuji (“Hoa Azeleas dại”) của Kitamura Kigin và những sách đạo đức hướng dẫn xử sự trong tình yêu nam giới như Shin’yuuki (“Ghi chép của những người bạn tâm huyết”) hay Hagakure (“Dưới bóng lá”) vẽ nên một bức tranh cụ thể về cách làm tình lý tưởng trong tình yêu nam giới thời bấy giờ…
Vào thời Phục hưng tại Ý, văn hóa cổ Hy – La được phục hồi với ba nhà danh họa đồng tính Michelangelo, Leonado Da Vinci và Caravaggio, biểu hiện tình dục đồng giới trong giai đoạn này có vẻ được dễ dàng hơn.
Qua những tài liệu còn lưu lại, người ta không biết tình dục đồng giới xuất hiện từ lúc nào, nhưng có điều chúng ta không thể phủ nhận là tình dục đồng giới từng được chấp nhận đã từ rất lâu, và cùng hiện diện chảy xuôi theo dòng sinh hoạt của nhân loại. Đồng tính luyến ái không bị giới hạn trong khung cảnh địa dư nào, mà nó hiện hữu trong mọi quốc gia, mọi sắc tộc đen – vàng - đỏ - trắng. Vì vậy, đồng tính luyến ái đã là một đề tài có tầm vóc quốc tế, là một khía cạnh tính dục của nhân loại, chiếm tỷ số 4% đến 8% dân số toàn cầu theo ước tính của Cơ quan Thống kê Dân số Thế giới thuộc Liên Hợp Quốc.
Mặc dù được xác nhận không phải là một loại bệnh về tâm thần, nhưng cho tới ngày nay các nhà khoa học, các chuyên gia tâm sinh lý, các bác sĩ vẫn ngày đêm cặm cụi trong các phòng thí nghiệm, cố gắng tìm nguyên nhân của đồng tính luyến ái. Những kết quả mà họ thu thập được đã dần dần làm hé mở cánh cửa bí mật về nguồn gốc của khuynh hướng đồng tính luyến ái.
Báo điện tử VietNamNet số ngày 15/11/2003 có loan tải bản tin dịch từ tờ Doctissimo.fr:
- Năm 1991, bác sĩ LeVay, khoa Thần kinh hoc, tại Học viện Salk (Mỹ) đã công bố nghiên cứu giải phẫu một phần não vùng dưới đầu của 41 tử thi. Đây là những người đã tử vong do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số họ, có 16 người đồng tính luyến ái. Bác sĩ phát hiện ra rằng, trong những người đồng tính luyến ái, thành phần INH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ gấp hai lần so với những người khác.
- Năm 1993, một nhóm nghiên cứu y học do Dean Harner đứng đầu đã tìm mối liên hệ giữa gien và hiện tượng đồng tính luyến ái. Họ tìm thấy một điểm đặc biệt trên nhánh dài của nhiễm sắc thể X, được truyền từ mẹ sang con và thường gặp ở những người đồng tính luyến ái.
Trên báo Medical News Today, ngày 27-1-2005, Tiến Sĩ Brian Mustanski, trưởng nhóm nghiên cứu toàn bộ gien người tại đại học Illinois (Mỹ), quan sát 22 cặp nhiễm sắc thể của 456 người thuộc 146 gia đình có ít nhất là hai anh em đồng tính. Nhóm của ông tìm thấy giữa các anh em đồng tính có một số chuỗi ADN giống hệt nhau về những nhiễm sắc thể không mang ký hiệu X. Khoảng 60% các anh em này có ADN giống nhau ở ba nhiễm sắc thể 7, 8, và 10. TS Mustanski cho biết:
"Không chỉ là một gien đồng tính, khuynh hướng tính dục là một đặc điểm phức tạp, nên không mấy ngạc nhiên khi chúng tôi tìm thấy những vùng ADN có liên quan tới sự biểu hiện của nó. Chúng tôi dự đoán là có những “nhóm đa gen” tương tác cùng ảnh hưởng môi trường giải thích cho sự khác biệt về tính dục này. Cuộc nghiên cứu của chúng tôi góp phần khẳng định rằng gien đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định một người đàn ông là đồng tính hay dị tính".
Trên trang báo Human Genetics vào tháng 2-2006 cũng có loan tải công trình nghiên cứu hiện tượng “tê liệt nhiễm sắc thể” của Sven Bocklandt, nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại đại học Los Ageles, California - UCLA (Mỹ). Các đối tượng nghiên cứu gồm 97 bà mẹ có con là đồng tính và 103 bà mẹ có con là dị tính”:
“Thông thường, mỗi tế bào máu trong thân thể phụ nữ, hoạt động theo chọn lựa “ngẫu nhiên”, sẽ làm tê liệt một trong hai nhiễm sắc thể X. Trong vài trường hợp, như bệnh gien di truyền thì có chiều hướng chọn lựa “đặc biệt nhắm vào” một loại nhiễm sắc thể trong các cặp XX mà thôi”.
“Họ tìm thấy gần 25% các bà mẹ có nhiều con đồng tính, đã làm tê liệt cùng một loại nhiễm sắc thể X, nói cách khác, không chọn lựa ngẫu nhiên như bình thường, so với chỉ 4% những bà mẹ không có con đồng tính. Với những người chỉ có một con là đồng tính, thì 13% trong số họ có cùng một loại nhiễm sắc thể X bị tê liệt".
Dù chưa thể chứng minh “gien đồng tính” nhưng qua những nghiên cứu này, Bác sĩ Ionel Sandovici, nhà di truyền học tại học viện Babraham, Cambridge, Anh quốc, dè dặt rằng:
“Các cuộc nghiên cứu đã cung cấp “bằng chứng chi tiết” là nhiễm sắc thể X đã đóng góp vào sự phát triển khuynh hướng tính dục nam giới, nhưng chúng ta vẫn còn hiểu biết quá ít về cơ cấu phân tử của khuynh hướng tính dục, và cái này dường như là thách đố sinh học rất phức tạp”.
Trở lại trường đại học Padua tại Ý, ngày 12-10-2004, các nhà di truyền học dưới sự hướng dẫn của Andrea Camperio-Ciani đã giải thích Nghịch lý Darwin:
“Người đồng tính luyến ái vốn không sinh sản, khi họ chết đi rồi, tại sao tính dục đồng giới vẫn luôn được hiện hữu đời này sang đời khác? Việc này hiển nhiên nói rằng chính trong thân thể người mẹ đã có một tác nhân nào đó di truyền lại cho con cái”.
Theo tôi đây là một một chân lý không thể chối cãi,“Người đồng tính ai ai cũng đều có cha có mẹ, vậy thì chính cộng đồng dị tính đã sinh sản ra những đứa con cho cộng đồng thiểu số tính dục này”. Ngày hôm nay, sau bao năm bồng bế thương yêu dưỡng dục, có lý nào cha mẹ lại chối bỏ mọi liên hệ tình cảm và ngoảnh mặt đối với những đứa con bất hạnh do chính mình đã sinh ra.
Bài liên quan: > Báo Người Lao Động kỳ thị người đồng tính > Phải chăng báo chí đang làm gia tăng kỳ thị với người đồng giới?...
> Nhà báo nghĩ gì khi người khác viết về đời tư của họ? --- Bạn có suy nghĩ gì về cuộc sống của người đồng tính? Bạn có đồng tình với nhận định cho rằng báo chí đang góp phần làm gia tăng sự kỳ thị vời người đồng tính không?... Hãy chia sẻ cùng chúng tôi những suy nghĩ và quan điểm của bạn. Bài viết xin gửi về hòm thư: chat.bandocviet@cihp.vn |






