Vô sinh: Những câu hỏi thường gặp
Thứ Sáu, 10/10/2025Đối với các cặp đôi đang mong muốn làm cha mẹ, việc khó thụ thai có thể gây nản lòng và bất ngờ. Nhiều cặp đôi đang vật lộn với vô sinh cuối cùng cũng có con, đôi khi nhờ đến sự hỗ trợ y tế.
Vô sinh là gì?
Vô sinh là tình trạng không có thai sau 1 thời gian nhất định giữa 2 vợ chồng có quan hệ tình dục mà không áp dụng bất cứ một biện pháp tránh thai nào. Qua các dữ liệu về sức khỏe cộng đồng, vô sinh được định nghĩa là không thể mang thai (thụ thai) sau 1 năm (hoặc lâu hơn) quan hệ tình dục không được bảo vệ.
- Vô sinh nguyên phát là trường hợp người phụ nữ chưa có thai lần nào sau khi hai vợ chồng sau 1 năm có quan hệ tình dục.
- Vô sinh thứ phát là trường hợp người phụ nữ chưa có thai lại sau lần có thai trước được 1 năm.
- Khả năng sinh sản ở phụ nữ được biết là giảm dần theo tuổi tác. Do đó, với phụ nữ từ 35 tuổi trở chỉ cần tính sau 6 tháng quan hệ tình dục không sử dụng các biện pháp tránh thai.
- Cả nam giới và nữ giới đều có thể gây vô sinh.
Mang thai là kết quả của một quá trình gồm nhiều bước. Để mang thai:
- Cơ thể người phụ nữ phải giải phóng một quả trứng từ một trong hai buồng trứng.
- Tinh trùng của người đàn ông phải kết hợp với trứng trên đường đi (thụ tinh).
- Trứng đã thụ tinh phải đi qua ống dẫn trứng hướng về phía tử cung.
- Phôi thai phải bám vào bên trong tử cung (làm tổ).
Vô sinh có thể là kết quả của vấn đề ở một hoặc nhiều bước trong số này.
Suy giảm khả năng sinh sản là tình trạng liên quan đến vô sinh. Tình trạng này đề cập đến những phụ nữ gặp khó khăn trong việc mang thai hoặc mang thai đến đủ tháng.
Các bác sĩ chuyên khoa cũng có thể giúp đỡ những phụ nữ bị sảy thai liên tiếp, được định nghĩa là bị sảy thai tự nhiên hai lần trở lên.
Cá nhân và các cặp vợ chồng không thể thụ thai nên cân nhắc đặt lịch hẹn với bác sĩ chuyên khoa.
Vô sinh có phải là vấn đề phổ biến không?
Trong báo cáo mới nhất về tỷ lệ vô sinh toàn cầu, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chỉ ra, trên toàn thế giới, ước tính cứ 6 người thì có khoảng 1 người bị vô sinh tại một giai đoạn nào đó trong đời và khoảng 17,5% người bị vô sinh cả đời. Tại Hoa Kỳ, cứ 5 phụ nữ đã kết hôn từ 15 đến 49 tuổi (19%) chưa từng sinh con trước đó thì có 1 người không thể mang thai sau 1 năm cố gắng. Khoảng 1/4 (26%) phụ nữ trong nhóm này gặp khó khăn trong việc mang thai hoặc mang thai đủ tháng.
Trong khi đó, tại Việt Nam, Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, ước tính mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn. Trong số này, khoảng 50% là cặp vợ chồng ở độ tuổi dưới 30. Đặc biệt, tỷ lệ vô sinh thứ phát (vô sinh sau một lần có thai) đang gia tăng đến 15-20% sau mỗi năm và chiếm hơn 50% các cặp vợ chồng vô sinh.
Theo nghiên cứu mới của Bệnh viện (BV) Phụ sản Trung ương và BV Đại học Y Hà Nội, tỷ lệ vô sinh ở các cặp vợ chồng trẻ hiện nay là 7,7%. Trong đó, vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Nếu như 10 năm trước, Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản – BV Phụ sản Trung ương mỗi ngày chỉ đón tiếp từ 1 đến 2 ca vô sinh, hiếm muộn thì đến nay con số này đã tăng gấp 20 lần.
Nguyên nhân nào gây ra tình trạng vô sinh ở phụ nữ?
Phụ nữ cần buồng trứng hoạt động, ống dẫn trứng và tử cung để có thai. Các tình trạng ảnh hưởng đến bất kỳ cơ quan nào trong số này đều có thể dẫn đến vô sinh ở nữ giới.
Rối loạn chức năng buồng trứng
Chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ trung bình kéo dài 28 ngày. Chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, có thể dự đoán được, xảy ra sau mỗi 21 đến 35 ngày, có thể phản ánh sự rụng trứng. Phụ nữ có kinh nguyệt không đều có khả năng không rụng trứng. Có thể dự đoán ngày rụng trứng bằng cách sử dụng que thử rụng trứng hoặc xét nghiệm máu.
Rối loạn chức năng buồng trứng có thể do nhiều nguyên nhân gây ra và cần được bác sĩ đánh giá. Không có xét nghiệm đơn lẻ nào có thể dự đoán chính xác khả năng sinh sản, nhưng có những xét nghiệm phổ biến để đánh giá chức năng buồng trứng. Các xét nghiệm này bao gồm hormone kích thích nang trứng (FSH), hormone kháng Müllerian (AMH) và xét nghiệm đếm nang trứng thứ cấp (AFC).
Một số tình trạng có thể gây ra các vấn đề liên quan đến chức năng buồng trứng bao gồm:
- Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) là nguyên nhân phổ biến nhất gây vô sinh. PCOS là tình trạng khiến phụ nữ không rụng trứng hoặc rụng trứng không đều.
- Suy giảm dự trữ buồng trứng (DOR) là tình trạng số lượng trứng còn lại trong buồng trứng ít hơn dự kiến ở một độ tuổi cụ thể. Tình trạng này có thể do nguyên nhân bẩm sinh, y khoa, phẫu thuật hoặc không rõ nguyên nhân.
- Suy giảm chức năng vùng dưới đồi và tuyến yên có thể ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng. Nếu bị suy yếu, các tuyến này có thể khiến quá trình sản xuất quá nhiều hormone duy trì chức năng buồng trứng bình thường bị gián đoạn.
- Vô kinh chức năng vùng dưới đồi (FHA) là một tình trạng có thể ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng. Tình trạng này có thể do tập thể dục quá mức, sụt cân, căng thẳng, hoặc kết hợp các yếu tố này.
- Suy buồng trứng nguyên phát (POI) đôi khi được gọi là mãn kinh sớm. Tình trạng này xảy ra khi buồng trứng của phụ nữ suy yếu trước tuổi 40.
Tắc ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng có thể được đánh giá bằng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm chụp tử cung vòi trứng để đánh giá xem vòi trứng có mở và thông hay không.
Các yếu tố nguy cơ gây tắc ống dẫn trứng bao gồm:
- Tiền sử nhiễm trùng vùng chậu
- Ruột thừa vỡ
- Bệnh lậu
- Bệnh Chlamydia
- Bệnh lạc nội mạc tử cung
- Phẫu thuật bụng trước đó
Bất thường ở tử cung
Có thể đánh giá bằng siêu âm qua âm đạo để tìm kiếm các vấn đề khác nhau. Siêu âm tử cung hoặc nội soi tử cung cũng có thể được thực hiện để đánh giá môi trường tử cung.
Các vấn đề ảnh hưởng đến đặc điểm vật lý của tử cung bao gồm:
- Dính tử cung
- Polyp nội mạc tử cung
- Bệnh lạc nội mạc tử cung
- Dị tật bẩm sinh của tử cung
- U xơ tử cung
Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ vô sinh ở phụ nữ?
Khả năng sinh sản của phụ nữ được biết là suy giảm khi:
- Tuổi tác. Khả năng sinh sản giảm dần theo tuổi tác chủ yếu do chất lượng trứng giảm dần theo thời gian. Phụ nữ lớn tuổi cũng có ít trứng hơn và dễ mắc các bệnh lý có thể gây ra các vấn đề về sinh sản. Lão hóa cũng làm tăng nguy cơ sảy thai ở phụ nữ và sinh con mắc bệnh di truyền.
- Hút thuốc.
- Sử dụng rượu quá mức.
- Bị thừa cân, béo phì hoặc thiếu cân.
- Tăng hoặc giảm cân quá mức.
- Căng thẳng quá mức về thể chất hoặc tinh thần dẫn đến vô kinh (mất kinh).
Nguyên nhân nào gây ra tình trạng vô sinh ở nam giới?
Vô sinh ở nam giới có thể do rối loạn chức năng tinh hoàn hoặc xuất tinh, cũng như do rối loạn nội tiết tố và di truyền. Tình trạng này thường được đánh giá bằng xét nghiệm tinh dịch đồ, tiền sử bệnh lý đầy đủ và khám sức khỏe tổng quát. Đánh giá này giúp xác định xem các yếu tố nam giới có góp phần gây vô sinh hay không và bằng cách nào.
Xét nghiệm tinh dịch đánh giá số lượng (nồng độ), khả năng di chuyển (chuyển động) và hình thái (hình dạng) của tinh trùng. Kết quả sau đó được đánh giá bởi một chuyên gia. Nếu tinh dịch được phát hiện có bất thường nhẹ, điều đó không nhất thiết có nghĩa là nam giới bị vô sinh.
Rối loạn chức năng tinh hoàn hoặc xuất tinh
Một số tình trạng có thể làm rối loạn chức năng tinh hoàn hoặc xuất tinh bao gồm:
- Giãn tĩnh mạch thừng tinh là tình trạng các tĩnh mạch ở tinh hoàn bị giãn ra, có thể ảnh hưởng đến số lượng hoặc hình dạng của tinh trùng.
- Chấn thương tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất tinh trùng và làm giảm số lượng tinh trùng.
- Các thói quen không lành mạnh, chẳng hạn như uống nhiều rượu, hút thuốc, sử dụng steroid đồng hóa và sử dụng ma túy bất hợp pháp, có thể làm giảm sản xuất tinh trùng.
- Điều trị ung thư bằng cách sử dụng một số loại hóa trị, xạ trị hoặc phẫu thuật để cắt bỏ một hoặc cả hai tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất tinh trùng hoặc khả năng thụ tinh của tinh trùng với trứng.
- Các tình trạng bệnh lý như tiểu đường, xơ nang, một số loại rối loạn tự miễn và một số loại nhiễm trùng có thể gây suy tinh hoàn.
Rối loạn nội tiết tố
Chức năng bất thường của vùng dưới đồi hoặc tuyến yên là những rối loạn nội tiết tố có thể gây vô sinh. Các tuyến này sản xuất hormone duy trì chức năng bình thường của tinh hoàn. Quá nhiều hormone này, đặc biệt là prolactin, có thể dẫn đến vô sinh. Các tình trạng khác làm tổn thương hoặc suy yếu vùng dưới đồi hoặc tuyến yên cũng có thể dẫn đến sản xuất ít hoặc không có tinh trùng.
Ví dụ về rối loạn nội tiết tố bao gồm:
- Khối u tuyến yên ác tính (ung thư)
- Tăng sản thượng thận bẩm sinh
- Tiếp xúc với quá nhiều estrogen
- Tiếp xúc với quá nhiều testosterone
- Hội chứng Cushing
- Sử dụng thuốc glucocorticoid mãn tính
Rối loạn di truyền
Các tình trạng di truyền có thể khiến tinh trùng không được sản xuất hoặc sản xuất ít tinh trùng. Ví dụ về rối loạn di truyền bao gồm:
- Hội chứng Klinefelter
- Vi mất đoạn nhiễm sắc thể Y
- Bệnh loạn dưỡng cơ myotonic
Điều gì làm tăng nguy cơ vô sinh ở nam giới?
Khả năng sinh sản của nam giới được biết là suy giảm khi:
- Tuổi tác. Các cặp đôi có người chồng từ 40 tuổi trở lên có nhiều khả năng gặp khó khăn trong việc thụ thai.
- Bị thừa cân hoặc béo phì.
- Hút thuốc.
- Lạm dụng rượu bia hoặc ma túy (như thuốc phiện hoặc cần sa).
- Tiền sử chấn thương tinh hoàn.
- Tiếp xúc với testosterone, bức xạ, một số loại thuốc hoặc một số chất độc trong môi trường.
- Thường xuyên để tinh hoàn tiếp xúc với nhiệt độ cao.
Khi nào các cặp đôi đang cố gắng thụ thai nên đi khám bác sĩ?
Cơ hội sinh con của phụ nữ giảm nhanh chóng mỗi năm sau tuổi 30.
- Các cặp đôi không có vấn đề rõ ràng về sức khỏe hoặc khả năng sinh sản, trong đó người phụ nữ dưới 35 tuổi và có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, nên cố gắng thụ thai trong ít nhất một năm trước khi đi khám bác sĩ.
- Các cặp đôi không có vấn đề rõ ràng về sức khỏe hoặc khả năng sinh sản, trong đó người phụ nữ từ 35 tuổi trở lên và có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, nên đi khám bác sĩ sau 6 tháng cố gắng thụ thai tự nhiên mà không thành công.
- Các cặp đôi có người phụ nữ trên 40 tuổi nên cân nhắc tìm kiếm sự đánh giá và điều trị ngay lập tức.
Các cặp đôi có những dấu hiệu hoặc triệu chứng sau đây không nên trì hoãn việc đi khám bác sĩ khi họ đang cố gắng thụ thai:
Đối với phụ nữ:
- Kinh nguyệt không đều hoặc không có kinh nguyệt.
- Tiền sử lạc nội mạc tử cung hoặc đau bụng kinh dữ dội.
- Tiền sử bệnh viêm vùng chậu.
- Bệnh tử cung hoặc ống dẫn trứng đã biết hoặc nghi ngờ.
- Có tiền sử sảy thai nhiều lần.
- Các tình trạng di truyền hoặc mắc phải có thể làm giảm dự trữ buồng trứng.
Đối với nam giới:
- Tiền sử chấn thương tinh hoàn.
- Phẫu thuật thoát vị trước đó.
- Đã từng sử dụng hóa trị liệu.
- Có tiền sử vô sinh với bạn tình khác.
- Rối loạn chức năng tình dục.
Các bác sĩ sẽ thu thập tiền sử bệnh lý và tình dục chi tiết của cả hai vợ chồng. Đánh giá ban đầu có thể bao gồm các xét nghiệm phù hợp dựa trên hoàn cảnh cụ thể của cặp đôi. Các xét nghiệm này có thể bao gồm: phân tích tinh dịch, đánh giá vòi trứng và xét nghiệm dự trữ buồng trứng.
Các cặp đôi nên trao đổi với bác sĩ chuyên khoa trước khi quyết định mang thai. Chuyên gia có thể giúp bạn chuẩn bị cơ thể sẵn sàng cho một em bé khỏe mạnh. Họ cũng có thể giải đáp các thắc mắc về khả năng sinh sản và đưa ra lời khuyên về việc thụ thai.
- https://www.cdc.gov/reproductive-health/infertility-faq/index.html/
- https://moh.gov.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia/chuyen-gia-khuyen-cao-can-chu-ong-tam-soat-vo-sinh-hiem-muon
- Tài liệu bài giảng sản phụ khoa (ĐHY Hà Nội)






