Điều trị vô sinh như thế nào?
Thứ Sáu, 10/10/2025Có nhiều lựa chọn điều trị vô sinh. Phương pháp điều trị được áp dụng tùy thuộc vào nguyên nhân gây vô sinh, thời gian và độ tuổi của bạn.
Bác sĩ có thể cần thực hiện xét nghiệm sơ bộ để xác định phương án điều trị tốt nhất cho bạn. Lựa chọn điều trị của cặp đôi sau khi được tư vấn về tỷ lệ thành công, các yếu tố nguy cơ và lợi ích của từng phương án cũng quyết định cách điều trị vô sinh của họ.
Các phương pháp điều trị vô sinh có thể bao gồm quan hệ tình dục đúng thời điểm, dùng thuốc, thụ tinh trong tử cung, phẫu thuật hoặc công nghệ hỗ trợ sinh sản.
Giao hợp có tính thời gian
Quan hệ tình dục đúng giờ - có hoặc không dùng thuốc - thường là lựa chọn đầu tiên của nhiều cặp đôi đang cố gắng thụ thai. Phương pháp này có thể được khuyến nghị cho các cặp đôi mà nam giới có số lượng và khả năng di chuyển tinh trùng bình thường hoặc gần bình thường, nữ giới có ống dẫn trứng mở (hoặc hoạt động), và cặp đôi có khả năng quan hệ tình dục về mặt thể chất.
Với phương pháp giao hợp định thời, cặp đôi sẽ theo dõi thời điểm rụng trứng của người phụ nữ và quan hệ tình dục vào khoảng thời gian rụng trứng. Nếu người phụ nữ rụng trứng bình thường, có thể không cần dùng thuốc. Nếu không, người phụ nữ có thể cần dùng thuốc (uống hoặc tiêm) để kích thích rụng trứng.
Thuốc
Có nhiều loại thuốc được sử dụng để điều trị vô sinh ở phụ nữ. Nhiều loại thuốc điều trị vô sinh làm tăng nguy cơ sinh đôi, sinh ba hoặc sinh nhiều con. Phụ nữ mang đa thai có thể gặp nhiều vấn đề hơn trong thai kỳ và có nguy cơ sinh non (sinh quá sớm) cao hơn. Trẻ sinh non có nguy cơ cao gặp các vấn đề về sức khỏe và phát triển. Bác sĩ có thể trao đổi với bạn về các chiến lược giảm nguy cơ sinh đôi trong khi sử dụng thuốc điều trị vô sinh.
Thụ tinh trong tử cung
Thụ tinh nhân tạo (IUI) là một phương pháp điều trị vô sinh. Trong quá trình này, tinh trùng được chuẩn bị đặc biệt sẽ được đưa vào tử cung của người phụ nữ. Phương pháp này có thể được khuyến nghị cho các cặp vợ chồng mà người nam có số lượng và khả năng di chuyển tinh trùng gần như bình thường, có khả năng lấy mẫu tinh dịch tại phòng khám (hoặc, trong một số trường hợp, tại nhà) và người phụ nữ có ống dẫn trứng mở, hoạt động bình thường.
Phương pháp điều trị này có thể phù hợp với các cặp đôi:
- Trường hợp người phụ nữ không tự rụng trứng bình thường nhưng có thể kích thích rụng trứng bằng thuốc.
- Những người bị vô sinh không rõ nguyên nhân.
- Với tình trạng vô sinh nhẹ do yếu tố nam giới (số lượng tinh trùng hoặc khả năng di chuyển của tinh trùng hơi thấp).
- Và các cặp đôi đồng giới nữ muốn thụ thai bằng tinh trùng hiến tặng.
Phẫu thuật
Phẫu thuật điều trị vô sinh hiếm khi được áp dụng do các phương pháp điều trị khác đã thành công, chẳng hạn như thụ tinh nhân tạo (IUI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Phẫu thuật có thể được khuyến nghị cho phụ nữ có một số chẩn đoán nhất định để tăng khả năng thụ thai. Ví dụ bao gồm phẫu thuật cắt bỏ u xơ tử cung bằng thủ thuật hoặc phẫu thuật điều trị tắc ống dẫn trứng. Nam giới cũng có thể được chỉ định phẫu thuật cho các chẩn đoán cụ thể, chẳng hạn như giãn tĩnh mạch thừng tinh.
Thụ tinh trong ống nghiệm
- Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) bao gồm tất cả các phương pháp điều trị vô sinh, trong đó trứng hoặc phôi được xử lý bên ngoài cơ thể. Loại ART chính là thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Nhìn chung, các thủ thuật ART bao gồm việc lấy trứng từ buồng trứng của người phụ nữ bằng kim. Trứng sau đó được kết hợp với tinh trùng trong phòng thí nghiệm để tạo thành phôi. Phôi được đưa trở lại cơ thể người phụ nữ, đông lạnh để sử dụng trong tương lai hoặc hiến tặng cho một người phụ nữ khác.
- Một biến thể của ART, được gọi là tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), thường được sử dụng cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam. Với ICSI, một tinh trùng duy nhất được tiêm vào trứng trưởng thành.
- Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ có thể được sử dụng trong quá trình ART để xác định các rối loạn di truyền hoặc bất thường nhiễm sắc thể ở phôi. Một hoặc nhiều tế bào được sinh thiết từ mỗi phôi và gửi đi xét nghiệm.
- ART có thể tốn kém và mất nhiều thời gian. Bất chấp những thách thức này, ART đã giúp nhiều cặp vợ chồng có con mà nếu không có ART, họ đã không thể có con.
- Tỷ lệ thành công sau IVF rất khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chúng có thể bao gồm phòng khám thực hiện thủ thuật, chẩn đoán vô sinh và độ tuổi của người phụ nữ trải qua thủ thuật. Độ tuổi của người phụ nữ đặc biệt quan trọng.
- Biến chứng thường gặp nhất của ART là đa thai. Điều này có thể được ngăn ngừa hoặc giảm thiểu bằng cách hạn chế số lượng phôi được chuyển trở lại tử cung. Ví dụ, việc chuyển một phôi duy nhất làm giảm đáng kể nguy cơ đa thai. Việc sử dụng một phôi duy nhất, thay vì nhiều phôi, giúp giảm thiểu các nguy cơ như sinh non.
Nhận của bên thứ ba?
Các thủ thuật ART đôi khi liên quan đến việc sử dụng trứng, tinh trùng hoặc phôi hiến tặng. Trứng hiến tặng đôi khi được sử dụng cho những phụ nữ không thể sản xuất trứng. Trứng hoặc tinh trùng hiến tặng đôi khi được sử dụng vì những lý do khác, chẳng hạn như bệnh di truyền có thể truyền sang em bé.
Một cặp vợ chồng vô sinh cũng có thể sử dụng phôi hiến tặng được tạo ra bởi các cặp vợ chồng khác trong quá trình điều trị vô sinh nhưng chưa được sử dụng. Khi sử dụng phôi hiến tặng, đứa trẻ sẽ không có quan hệ huyết thống với cha hoặc mẹ. Trứng hiến tặng, tinh trùng hiến tặng hoặc phôi hiến tặng cũng có thể được sử dụng bởi các cặp đồng giới.
Người mang thai hộ (người mang thai hộ) mang theo phôi thai được hình thành từ trứng của một phụ nữ khác với mong muốn đứa trẻ sẽ được trả lại cho cha mẹ dự định. Phụ nữ không có tử cung có thể sử dụng người mang thai hộ. Phụ nữ không thể mang thai, hoặc có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và không nên mang thai cũng có thể cân nhắc lựa chọn này.
Nguồn: https://www.cdc.gov/reproductive-health/infertility-faq/index.html/






