Chửa trứng Thứ Tư, 11/06/2014, 00:00
Chửa trứng là một hiện tượng thai nghén bất thường. Đây là hiện tượng thường gặp ở những nước có nền kinh tế kém phát triển.
Theo số liệu thống kê của Bộ y tế, ở nước ta tỷ lệ gặp chửa trứng khá cao: 1/500 người có thai.
Thế nào là chửa trứng
Thông thường sau khi trứng được thụ tinh sẽ phân chia rất nhanh để cấu tạo thành thai và phần phụ của thai (như túi ối, gai rau, rau ..). Sự phát triển giữa phần thai và phần phụ của thai phải tương ứng với nhau. Tuy nhiên, có những trường hợp tế bào nuôi (phần phát triển thành gai rau) phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết và các mao mạch của mạch máu rốn của gai rau không phát triển kịp nên gai rau bị thoái hoá, sưng mọng lên và tạo thành các túi chứa dịch dính vào nhau như chùm nho, thường chiếm toàn bộ diện tích buồng tử cung. Các tổn thương này đã làm trứng hỏng nhưng gai rau vẫn được nuôi dưỡng bằng máu mẹ nên vẫn tiếp tục hoạt động. Hiện tượng này gọi là hiện tượng chửa trứng.
Nguyên nhân gây chửa trứng
Hiện nay, vẫn chưa xác định được một cách chính xác nguyên nhân gây chửa trứng. Y học mới xác định một số yếu tố làm tăng nguy cơ chửa trứng như:
- Tuổi của người mẹ (một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu tuổi của người mẹ khi mang thai trên 40 tuổi thì nguy cơ chửa trứng tăng 5,2 lần so với những bà mẹ mang thai ở độ tuổi từ 21 đến 35. Đồng thời nếu tuổi của người mẹ khi mang thai dưới 20 thì nguy cơ chửa trứng cũng tăng đáng kể)
- Có tiền sử thai nghén lần đầu không bình thường
- Đã đẻ nhiều lần
- Thiếu chất dinh dưỡng (chủ yếu là đạm)
Các loại chửa trứng
Thông thường sau khi trứng được thụ tinh sẽ phân chia rất nhanh để cấu tạo thành thai và phần phụ của thai (như túi ối, gai rau, rau ..). Sự phát triển giữa phần thai và phần phụ của thai phải tương ứng với nhau. Tuy nhiên, có những trường hợp tế bào nuôi (phần phát triển thành gai rau) phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết và các mao mạch của mạch máu rốn của gai rau không phát triển kịp nên gai rau bị thoái hoá, sưng mọng lên và tạo thành các túi chứa dịch dính vào nhau như chùm nho, thường chiếm toàn bộ diện tích buồng tử cung. Các tổn thương này đã làm trứng hỏng nhưng gai rau vẫn được nuôi dưỡng bằng máu mẹ nên vẫn tiếp tục hoạt động. Hiện tượng này gọi là hiện tượng chửa trứng.
Nguyên nhân gây chửa trứng
Hiện nay, vẫn chưa xác định được một cách chính xác nguyên nhân gây chửa trứng. Y học mới xác định một số yếu tố làm tăng nguy cơ chửa trứng như:
- Tuổi của người mẹ (một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu tuổi của người mẹ khi mang thai trên 40 tuổi thì nguy cơ chửa trứng tăng 5,2 lần so với những bà mẹ mang thai ở độ tuổi từ 21 đến 35. Đồng thời nếu tuổi của người mẹ khi mang thai dưới 20 thì nguy cơ chửa trứng cũng tăng đáng kể)
- Có tiền sử thai nghén lần đầu không bình thường
- Đã đẻ nhiều lần
- Thiếu chất dinh dưỡng (chủ yếu là đạm)
Các loại chửa trứng
Chửa trứng có hai loại: Chửa trứng hoàn toàn và chửa trứng không hoàn toàn
- Chửa trứng hoàn toàn: Là loại chửa trứng không có tổ chức thai, các gai rau phình to, mạch máu lông rau biến mất, lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh.
- Chửa trứng không hoàn toàn (hay còn gọi là chửa trứng bán phần): có tổ chức thai hoặc một phần thai, màng ối, thai có thể còn sống hoặc đã chết, các gai rau phù nề.
Các triệu chứng nghi chửa trứng
Nếu thai phụ có các triệu chứng bất thường sau có thể nghi chửa trứng:
- Ra máu: Thường ra máu sớm trong 3 tháng đầu của thai kỳ, máu thường nâu đen, có thể đỏ, ra dai dẳng hoặc chảy máu ồ ạt dẫn đến thiếu máu.
- Nghén nặng: Thường nôn nhiều (có thể do nội tiết tố rau thai tăng tiết), đôi khi xuất hiện phù, protein niệu
- Nếu đã sinh đẻ có thể nhận thấy bụng to nhanh hơn bình thường
- Siêu âm thấy kích thước của tử cung to, không tương xứng với tuổi thai, mềm, thấy hình lỗ chỗ trong khối rau như hình ảnh tuyết rơi
- Siêu âm không có âm vang thai trong tử cung
- Không nghe thấy tim thai (tim thai âm tính)
- Khám âm đạo và phần phụ có thể thấy nhân di căn âm đạo, to bằng ngón tay, màu tím sẫm, dễ vỡ, gây chảy máu và có thể thấy nang hoàng tuyến (ở một hoặc hai bên buồng trứng) mọng, dễ di động
- Xét nghiệm nước tiểu thấy nồng độ HCG tăng cao, trên 30 000 đơn vị ếch
Tiến triển của bệnh
Nếu không chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời có thể gây:
- Băng huyết do sảy trứng, nguy hiểm đến tính mạng thai phụ
- Thủng tử cung do trứng ăn sâu vào cơ tử cung làm thủng lớp cơ tử cung, gây chảy máu vào ổ bụng
- Ung thư tế bào nuôi phần thai, sau đó lan sang gây ung thư cho mẹ
Thai trứng có loại lành tính và ác tính. Khoảng 30% thai trứng lành tính tai biến thành ác tính. Các yếu tố có nguy cơ ác tính:
- Kích thước tử cung trước nạo to hơn tuổi thai 20 tuần
- Có hai nang hoàng tuyến to hai bên
- Nồng độ HCG tăng rất cao
- Có biến chứng của thai trứng như: nhiễm độc thai nghén, cường tuyến giáp
- Chửa trứng lặp lại
Xử lý và điều trị chửa trứng
Nếu nghi ngờ bị thai trứng cần đi siêu âm để biết kết quả chắc chắn. Nếu đúng là thai trứng cần lấy trứng ra càng sớm càng tốt để đề phòng sảy trứng, chảy máu nhiều và phát triển thành ác tính. Nếu trứng chưa sảy có thể nạo, hút. Nếu đang sảy thì có thể hút hoặc gắp trứng ra thật sạch. Riêng đối với những phụ nữ trên 40 tuổi hoặc không muốn có con nữa bác sỹ thường chỉ định cắt bỏ tử cung, nhằm dự phòng biến chứng ác tính.
Ngay sau khi nạo trứng, cần gửi tổ chức nạo để xét nghiệm giải phẫu bệnh lý xem chửa trứng ác tính hay lành tính. Và cần theo dõi sự co hồi của tử cung, nang hoàng tuyến, nhân di căn. Nếu thấy tử cung vẫn to, nang hoàng tuyến không mất đi hoặc xuất hiện nhân di căn thì nguy cơ ác tính rất cao. Thời gian theo dõi trong 6 tháng đầu mỗi tháng một lần, sau một năm ba tháng một lần cho đến hết hai năm. Đặc biệt, sau nạo trứng cần theo dõi nồng độ HCG trong nước tiểu: 1-2 tuần một lần cho đến khi âm tính ba lần liên tiếp. Trong vòng một năm đầu cần thử hai tháng một lần.
Sau một lần bị chửa trứng, phụ nữ có thể bị chửa trứng trong lần mang thai tiếp theo. Song vẫn có nhiều trường hợp có thể mang thai bình thường trong những lần mang thai sau đó. Tuy nhiên, sau mỗi lần chửa trứng cần tránh có thai trong vòng hai năm, để có đủ thời gian theo dõi và tiên lượng nguy cơ chuyển thành ác tính. Khi muốn có thai trở lại, nhất thiết phải kiểm tra nồng độ HCG trong nước tiểu.
Phòng ngừa chửa trứng
Để phòng ngừa thai trứng, cần ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vệ sinh cơ quan sinh dục sạch sẽ, sinh đẻ có kế hoạch, không sinh quá gần nhau, nên đi khám thai định kỳ. Nếu đã điều trị thai trứng thì sau đó phải tuân theo mọi sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Ngọc Trang (Biên tập)
- Chửa trứng hoàn toàn: Là loại chửa trứng không có tổ chức thai, các gai rau phình to, mạch máu lông rau biến mất, lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh.
- Chửa trứng không hoàn toàn (hay còn gọi là chửa trứng bán phần): có tổ chức thai hoặc một phần thai, màng ối, thai có thể còn sống hoặc đã chết, các gai rau phù nề.
Các triệu chứng nghi chửa trứng
Nếu thai phụ có các triệu chứng bất thường sau có thể nghi chửa trứng:
- Ra máu: Thường ra máu sớm trong 3 tháng đầu của thai kỳ, máu thường nâu đen, có thể đỏ, ra dai dẳng hoặc chảy máu ồ ạt dẫn đến thiếu máu.
- Nghén nặng: Thường nôn nhiều (có thể do nội tiết tố rau thai tăng tiết), đôi khi xuất hiện phù, protein niệu
- Nếu đã sinh đẻ có thể nhận thấy bụng to nhanh hơn bình thường
- Siêu âm thấy kích thước của tử cung to, không tương xứng với tuổi thai, mềm, thấy hình lỗ chỗ trong khối rau như hình ảnh tuyết rơi
- Siêu âm không có âm vang thai trong tử cung
- Không nghe thấy tim thai (tim thai âm tính)
- Khám âm đạo và phần phụ có thể thấy nhân di căn âm đạo, to bằng ngón tay, màu tím sẫm, dễ vỡ, gây chảy máu và có thể thấy nang hoàng tuyến (ở một hoặc hai bên buồng trứng) mọng, dễ di động
- Xét nghiệm nước tiểu thấy nồng độ HCG tăng cao, trên 30 000 đơn vị ếch
Tiến triển của bệnh
Nếu không chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời có thể gây:
- Băng huyết do sảy trứng, nguy hiểm đến tính mạng thai phụ
- Thủng tử cung do trứng ăn sâu vào cơ tử cung làm thủng lớp cơ tử cung, gây chảy máu vào ổ bụng
- Ung thư tế bào nuôi phần thai, sau đó lan sang gây ung thư cho mẹ
Thai trứng có loại lành tính và ác tính. Khoảng 30% thai trứng lành tính tai biến thành ác tính. Các yếu tố có nguy cơ ác tính:
- Kích thước tử cung trước nạo to hơn tuổi thai 20 tuần
- Có hai nang hoàng tuyến to hai bên
- Nồng độ HCG tăng rất cao
- Có biến chứng của thai trứng như: nhiễm độc thai nghén, cường tuyến giáp
- Chửa trứng lặp lại
Xử lý và điều trị chửa trứng
Nếu nghi ngờ bị thai trứng cần đi siêu âm để biết kết quả chắc chắn. Nếu đúng là thai trứng cần lấy trứng ra càng sớm càng tốt để đề phòng sảy trứng, chảy máu nhiều và phát triển thành ác tính. Nếu trứng chưa sảy có thể nạo, hút. Nếu đang sảy thì có thể hút hoặc gắp trứng ra thật sạch. Riêng đối với những phụ nữ trên 40 tuổi hoặc không muốn có con nữa bác sỹ thường chỉ định cắt bỏ tử cung, nhằm dự phòng biến chứng ác tính.
Ngay sau khi nạo trứng, cần gửi tổ chức nạo để xét nghiệm giải phẫu bệnh lý xem chửa trứng ác tính hay lành tính. Và cần theo dõi sự co hồi của tử cung, nang hoàng tuyến, nhân di căn. Nếu thấy tử cung vẫn to, nang hoàng tuyến không mất đi hoặc xuất hiện nhân di căn thì nguy cơ ác tính rất cao. Thời gian theo dõi trong 6 tháng đầu mỗi tháng một lần, sau một năm ba tháng một lần cho đến hết hai năm. Đặc biệt, sau nạo trứng cần theo dõi nồng độ HCG trong nước tiểu: 1-2 tuần một lần cho đến khi âm tính ba lần liên tiếp. Trong vòng một năm đầu cần thử hai tháng một lần.
Sau một lần bị chửa trứng, phụ nữ có thể bị chửa trứng trong lần mang thai tiếp theo. Song vẫn có nhiều trường hợp có thể mang thai bình thường trong những lần mang thai sau đó. Tuy nhiên, sau mỗi lần chửa trứng cần tránh có thai trong vòng hai năm, để có đủ thời gian theo dõi và tiên lượng nguy cơ chuyển thành ác tính. Khi muốn có thai trở lại, nhất thiết phải kiểm tra nồng độ HCG trong nước tiểu.
Phòng ngừa chửa trứng
Để phòng ngừa thai trứng, cần ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vệ sinh cơ quan sinh dục sạch sẽ, sinh đẻ có kế hoạch, không sinh quá gần nhau, nên đi khám thai định kỳ. Nếu đã điều trị thai trứng thì sau đó phải tuân theo mọi sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Ngọc Trang (Biên tập)
Lượt xem: 13118
Nhận xét(0 Nhận xét)
Chưa có nhận xét nào
Chúng tôi mong muốn nhận được nhận xét của bạn.
Bạn vui lòng nhập đầy đủ các trường có dấu *
Các tin mới hơn
- Trầm cảm sau sinh: Làm thế nào để dự phòng và can thiệp? Thứ Bẩy, 13/07/2024, 00:00
- Trầm cảm sau sinh: những yếu tố nguy cơ và ảnh hưởng tới sức khỏe mẹ và bé Thứ Sáu, 12/07/2024, 00:00
- Trầm cảm sau sinh: Bóng ma vô hình của những người mẹ Thứ Năm, 11/07/2024, 00:00
- Ảnh hưởng của rượu đối thai nhi Thứ Ba, 09/07/2024, 00:00
- Tăng bao nhiêu cân trong thai kỳ là hợp lý? Chủ Nhật, 23/06/2024, 00:00
- Vai trò của chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai Thứ Bẩy, 22/06/2024, 00:00
- Có thể có thai từ quan hệ tình dục qua đường hậu môn không? Thứ Năm, 06/06/2024, 00:00
- Phụ nữ cần chuẩn bị sức khỏe trước khi mang thai Thứ Ba, 07/05/2024, 00:00
- Bà bầu có thể làm gì để sinh thường? 6 lời khuyên cần thiết cho tam cá nguyệt thứ ba Thứ Sáu, 03/05/2024, 00:00
- Cách đối phó với sự lo âu khi mang thai Thứ Sáu, 15/03/2024, 13:00
Các tin khác
- Sẩy thai liên tiếp - Nguyên nhân và điều trị Thứ Hai, 09/06/2014, 00:00
- Bệnh tiểu đường và thai nghén Thứ Ba, 03/06/2014, 00:00
- Bệnh cúm và phụ nữ mang thai Thứ Sáu, 23/05/2014, 00:00
- Quan hệ tình dục khi mang thai Thứ Tư, 21/05/2014, 00:00
- Những dấu hiệu cho thấy bạn có thai Thứ Tư, 07/05/2014, 00:00
- Quan hệ tình dục ở phụ nữ trong thời kỳ có thai Thứ Bẩy, 03/05/2014, 00:00
- Cách tính tuổi thai thông thường và của bác sỹ Thứ Hai, 21/04/2014, 00:00
- Lựa chọn thời điểm thụ thai và sinh nở Thứ Ba, 08/04/2014, 00:00
- Sự phát triển của bào thai Thứ Tư, 12/03/2014, 00:00
- Quá trình thụ thai Thứ Ba, 11/03/2014, 00:00
- Trứng và khả năng thụ thai Thứ Hai, 10/03/2014, 00:00
- Tinh trùng và khả năng thụ thai Chủ Nhật, 09/03/2014, 00:00