Giải pháp cho sự tiến triển của cuộc chiến phòng chống AIDS toàn cầu Thứ Năm, 03/06/2004, 16:58
Tới dự hội thảo có đại diện của quỹ Ford, ban lãnh đạo, giảng viên, sinh viên của Phân viện báo chí và tuyên truyền, đại diện của các tổ chức của chính phủ và phi chính phủ đang trực tiếp tham gia và quan tâm tới vấn đề đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS ở Việt nam.
Nội dung chủ yếu của buổi toạ đàm chủ yếu tập trung vào mười chiến lược chống HIV/ AIDS trên toàn cầu. Mười chiến lược chống HIV/AIDS này là kinh nghiệm thu thập được dựa trên bài học và sự thành công của các nước khác nhau trên thế giới như: Thái Lan, Uganda, Nam Phi, Mỹ... và các nước khác, trong việc kiểm soát hay giảm nạn dịch HIV ở nước họ trong nhiều năm qua.
Giáo sư Tiến sĩ ANKEA.EHRHARDT nhấn mạnh, các chiến lược này là kinh nghiệm của một số nước nhưng khi áp dụng đồng thời và nhanh chóng, có thể thích hợp và hiệu quả đối với bất kỳ nước nào muốn ngăn chặn sự lây lan của HIV/AIDS.
Chiến lược thứ nhất: Chính phủ phải lãnh đạo và cam kết coi HIV/AIDS là ưu tiên.
Có ba nguyên nhân chính vì sao phải giải quyết vấn đề HIV/AIDS như là ưu tiên hàng đầu của quốc gia.
1. AIDS có những tác động tàn phá đối với nền kinh tế:
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy khi tỷ lệ nhiễm HIV tăng, cả tổng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội đều bị giảm sút đáng kể.
2. AIDS và HIV gây ra đau khổ ngoài sức tưởng tượng và chết chóc trong dân chúng.
Tổng dân số của 45 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất bởi HIV/AIDS sẽ ít đi 97 triệu người so với dân số mà họ sẽ có nếu như không có dịch HIV/AIDS. Tỉ lệ lây nhiễm cao của dịch HIV/AIDS đã reo rắc sự thương tiếc, buồn khổ và vết thương tình cảm ở khắp các quốc gia, đặc biệt với những quốc gia nghèo mà ở đó, người nhiễm không được điều trị.
3. Dịch HIV/AIDS có thể góp phần làm bạo lực lan rộng.
Dịch AIDS có thể góp phần hợp lý hoá bạo lực và phá vỡ cam kết của người lớn bảo vệ lớp trẻ.
Ví dụ: Ở Nam phi có những báo cáo cho thấy nam giới có quan hệ tình dục với thiếu niên trẻ, bao gồm cả trẻ em, vì họ tin rằng họ có thể cứu chữa mình khỏi căn bệnh HIV thông qua quan hệ tình dụcvới người còn trinh tiết.
Chiến lược thứ hai: Cách tiếp cận quốc gia đa thành phần:
Một cách đối phó có hiệu quả của chính phủ với nạn dịch phải mang tính đa thành phần. Những đối phó đa thành phần dẫn đến những chiến lược chống lại AIDS có sự tham gia của tất cả các ngành của chính phủ và nhiều thành phần của khu vực phi chính phủ và tư nhân. Điều đó đẫn đến những cách tiếp cận vượt ra khỏi giới hạn của khu vực y tế để thừa nhận rằng dịch HIV tác động tới tất cả các khía cạnh cuộc sống của các cá nhân và của cộng đồng. Một vài mục đích của chiến lược đa thành phần không chỉ đơn giản là ngăn chặn sự lây lan của HIV/AIDS mà còn: 1/ làm giảm các tác động có hại đến y tế và kinh tế xã hội; 2/ nâng cao khả năng của quốc gia, vùng và địa phương để đối phó lại với nạn dịch; 3/ Ủng hộ các cơ sở thông tin/giám sát quốc gia; 4/ nâng cao khả năng nghiên cứu; 5/ đưa các tiếp cận nhân quyền vào HIV/AIDS.
Chính phủ cùng nên hợp tác với các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân. Các tổ chức phi chính phủ và tổ chức cộng đồng thường ủng hộ tích cực cho những thông tin công cộng về HIV, bảo vệ nhân quyền, giảm kỳ thị, và chăm sóc các bệnh nhân AIDS. Những người sống chung với AIDS cũng có vai trò nòng cốt. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế cung cấp tài trợ, kỹ thuật chuyên môn, tuỳ nơi thích hợp, và chuyển giao công nghệ. Khu vực tư nhân có thể giáo dục cho công nhân của họ.
Chiến lược thứ 3: Dữ liệu giám sát và các chỉ số con người:
Một trong những chiến lược đầu tiên để có thể phát triển được một kế hoạch chiến lược thực tế là phải thành lập được một số hệ thống giám sát tin cậy để theo dõi các chương trình hợp nhiễm và đánh giá các chỉ số con người, bao gồm đánh giá hành vi có nguy cơ, kết hợp giữa tồn tại của dịch HIV, tạo nên nhận thức của công chúng, và huy động cam kết và hành động chính trị. Dữ liệu giám sát cho phép các chính phủ theo dõi những dấu hiệu đáng lo ngại đầu tiên và các mẫu thuộc về địa lý của nạn dịchv à đưa ra những can thiệp HIV/AIDS phù hợp với những xu hướng nhiễm HIV cụ thể của đất nước. Hơn thế nữa, các chính phủ đã được tiếp công để cung cấp thông tin xây dựng chính sách và nhân rộng những can thiệp chống HIV thích hợp với quy mô dân số hơn.
Chiến lược thứ 4: Các chiến dịch truyền thông:
Truyền thông đóng vai trò nòng cốt trong cuộc chiến chống lại HIV/AIDS. Các chiến dịch truyền thông có thể là chiến lược có hiệu quả giáo dục công chúng về thực tế nhiễm và lây truyền HIV, cách tiếp cân xét nghiệm và điều trị, và có thể được sử dụng để nâng cao nhận thức về vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử. Theo như các khảo sát của Mỹ, 72% người Mỹ đã nói rằng truyền hình, đài, và báo chí là nguồn thông tin chủ yểu của họ về HIV/AIDS. Ở Ấn độ, 70% số người được hỏi trong một cuộc khoả sát đã nói rằng họ nhận được thông về HIV/AIDS qua truyền hình.
Chiến lược thứ 5: giảm kỳ thị với HIV/AIDS:
Kỳ thị là rào cản chủ yếu tới tất cả các khía cạnh của công cuộc phòng chống và chăm sóc HIV. Cần chống lại sự kỳ thị ở tất cả các cấp và các chiến lược cần huy động các cấp cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Những người nhiễm HIV-bao gồm cả những người nổi tiếng công khai việc mình bị nhiễm có thể giúp chống được kỳ thị cá nhân.
Một phần khác của chiến dịch toàn cầu là việc pháp chế hoá chống lại sự phân biệt đối xử. Điểm này có thể có hiệu quả trong việc bảo vệ quyền của các cá nhân sống chung với HIV/AIDS tại nơi làm việc, tại các cơ sở chăm sóc y tế, trường học và các tổ chức tôn giáo.
Chiến lược thứ 6: Hướng tới những người có liên quan:
Phát triển những can thiệp về mặt giáo dục cho phòng chống và dịch vụ chăm sóc HIV là cần thiết nhưng chưa đủ. Chính phủ cần phải hướng tới và huy động những người có liên quan ở cộng đồng tham gia một cách tích cực. Họ bao gồm phụ huynh học sinh, giáo viên, các nhà cung cấp dịch vụ y tế, các nhà lãnh đạo ở cộng đồng và các thủ lĩnh tôn giáo. Một cách để làm việc này là nhấn mạnh sự hưởng ứng giải quyết nạn dịch đa thành phần ở cấp quốc gia có thể thu hút những ý kiến mới cho bàn nghị sự chính sách và sau đó nhân rộng việc tham gia ở cấp vùng địa phương.
Chiến lược thứ 7: Điều trị sẵn có và cơ sở hạ tầng cho người sử dụng ma tuý
Việc tiêm chích ma tuý là phổ biến trên toàn thế giới và tạo nên một con đường lây truyền HIV đáng kể. Bài trừ ma tuý bằng cách nhấn mạnh vào sự băng hoại đạo đức cá nhân, bao gồm cả việc cho đó là tội ác đã không đem lại hiệu quả. Số người sử dụng ma tuý và nguy cơ lây nhiễm HIV từ việc dùng chung bơm kim tiêm không giảm. Một bước tiếp cận thực tế hơn, mang tính nhân văn là can thiệp về mặt cơ cấu: biến điều trị ma tuý trở lên sẵn có, bao gồm điều trị methadone cho người sử dụng heroin; cung cấp khả năng tiếp cận kim tiêm vô trùng nhiều hơn thông qua trao đổi bơm kim tiêm và bán ở các hiệu thuốc; và đưa ra người tiêm chích ma tuý (IDU) tham gia tham gia vào việc lập kế hoạch và các nỗ lực giáo dục đồng đẳng để đảm bảo sự thích hợp và hiệu quả của chương trình.
Chiến lược thứ 8: Giáo dục tình dục, phân phát bao cao su và thông tin về tình dục an toàn.
Hành vi tình dục là con đường chủ yếu lây truyền HIV đối với phần lớn mọi người ở những nước chịu ảnh hưởng của HIV/AIDS. Tuy nhiên, việc thiếu hiểu biết một cách chi tiết về tình dục của con người-ở khắp tất cả các nền văn hoá đa dạng và có liên quan tới định hướng về giới và tình dục-là khó khăn chủ yếu trong việc ngăn chặn nhiễm HIV và AIDS không lây lan rộng.
Không một kế hoạch chiến lược chống lại HIV/AIDS nào có thể bỏ qua vấn đề tình dục và phân phát bao cao su.
Uganda và Thái Lan là những ví dụ đầy ấn tượng về việc tuyên truyền thẳng thắn và có hiệu quả về tình dục và sự phân phát rộng rãi bao cao su. Bước tiếp cận về tình dục và tình dục an toàn hơn này đã trở thành hòn đá tảng trong thành công của nước này.
Chiến lược thứ 9: Lồng ghép phòng chống và chăm sóc
Thuốc phòng vi rút hay còn gọi là ART có hiệu quả trong việc kéo dài cuộc sống của những người nhiễm HIV và ngăn chặn sự lây truyền từ mẹ sang con. Hiện tại, phần lớn các nước không có nguồn lực tài chính để cung cấp ART cho những người dân bị nhiễm. Đây là một yêu cầu đạo đức đòi hỏi phải có một kế hoạch toàn cầu giải quyết vấn đề này và để tất cả các nước sẽ có khả năng tham gia vào việc cung cấp và điều trị có hiệu quả để bảo vệ cuộc sống và giảm nhẹ khổ sở và buồn đau của con người.
Ngoài việc tiếp cận điều trị có hiệu quả, còn có những thách thức là xây dựng được cơ sở hạ tầng phân phát thuốc phòng chống HIV bao gồm việc xét nghiệm HIV tự nguyện và đảm bảo bí mật (hay còn gọi là VCT) và một hệ thống chăm sóc y tế có khả năng cung cấp chăm sóc hiện đại nhất cho những người bị nhiễm.
Cơ sở hạ tầng này có thể là phù hợp nhất đối với việc ngăn chặn sự lây truyền theo đường tình dục từ người nhiễm sang người không nhiễm. Điều này có thể đạt được khi đưa tư vấn có hiệu quả trở thành một phần của sự chăm sóc cho người bệnh. Theo truyền thống thì việc phòng ngừa được tập trung vào đối tượng chưa bị nhiễm trong khi chăm sóc thì nhằm giải quyết những vấn đề của người bị nhiễm mà thiếu đi những nỗi lực phòng ngừa. Ngày nay, một kế hoạch chiến lược mang tính toàn cầu muốn mang lại hiệu quả, cần có sự lồng ghép cả phòng ngừa và chăm sóc.
Chiến lược thứ 10: Chống lại sự bất bình đẳng về giới và nâng cao sức mạnh của phụ nữ.
Vì bất bình đẳng giới có quan hệ chặt chẽ với sự lây lan của HIV/AIDS, việc nâng cao sức mạnh của phụ nữ đã được thừa nhận là đóng vai trò chủ yếu trong việc hạn chế tới mức độ tối đa nguy cơ và khả năng dễ bị nhiễm HIV/AIDS của phụ nữ ở mọi nơi. Trong một số lĩnh vực của cuộc đấu tranh chống lại bất bình đẳng giới và HIV/AIDS đã đạt được tiến bộ nhưng chúng ta vẫn còn phải đi một chặng đường dài nữa.
Có một điểm được thừa nhận rộng rãi là phần lớn phụ nữ bị nhiễm do chồng hoặc bạn tình nam ở những quan hệ mang tính chất cam kết. Vai trò phụ thuộc của phụ nữ đã khiến cho họ dễ bị nhiễm vì họ không có đủ khả năng quyết đoán kiên quyết để tự bảo vệ mình nếu như bạn tình nam của họ không hợp tác. Sự tiếp cận chênh lệch của phụ nữ với đất đai, thu nhập, giáo dục và tín dụng, cộng thêm với vai trò phụ thuộc về đặc điểm giới đã khiến họ bị lệ thuộc, bị động và không có lựa chọn khác nào ngoài những mối quan hệ này của họ. Chính vì thế, một trong những chiến lược chủ chốt nâng cao sức mạnh của phụ nữ là phát triển các phương pháp chịu sự quản lý của người phụ nữ.
Cuộc toạ đàm đã diễn ra trong vòng hai giờ đồng hồ, Giáo sư Tiến sĩ ANKEA. EHRHARDT đã trực tiếp trả lời câu hỏi từ phía người đại diện của các tổ chức và những sinh viên tham dự về các vấn đề liên quan đến: con đường lây nhiễm của HIV/AIDS, việc sử dụng thuốc điều trị, thuốc dự phòng HIV/AIDS cũng như các chiến lược phòng ngừa HIV/AIDS ở Việt nam và quốc tế.
Giáo sư Tiến sĩ ANKEA. EHRHARDT, quỹ FORD, cùng toàn thể những người tham dự đều hy vọng rằng những nội dung của cuộc trao đổi ngày hôm nay sẽ được các cấp lãnh đạo, các nhà lập chính sách và các tổ chức xã hội quan tâm, trên cơ sở đó, xây dựng được những chiến lược phù hợp nhằm đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam trong thời gian tới.
Sông Hồng
Nhận xét(0 Nhận xét)
Chúng tôi mong muốn nhận được nhận xét của bạn.
Bạn vui lòng nhập đầy đủ các trường có dấu *
Các tin mới hơn
- Xét nghiệm sớm HIV cho mẹ - Hướng tới loại trừ lây truyền HIV sang con Thứ Sáu, 26/01/2024, 13:00
- 7 dấu hiệu HIV ở nữ dễ nhầm lẫn với bệnh khác Thứ Tư, 17/01/2024, 00:00
- Cẩm nang những điều bạn cần biết về tình trạng trẻ bị nhiễm HIV Thứ Tư, 17/01/2024, 00:00
- Xác suất lây nhiễm HIV sau 1 lần quan hệ là bao nhiêu? Thứ Tư, 17/01/2024, 00:00
- Triệu chứng nhiễm HIV qua 3 giai đoạn Thứ Tư, 17/01/2024, 00:00
- HIV có lây qua nước bọt không? Thứ Tư, 17/01/2024, 00:00
- Dấu hiệu nhiễm HIV sau 1 năm gồm triệu chứng gì? Có thể nhận biết nhanh? Thứ Ba, 16/01/2024, 00:00
- Xét nghiệm HIV Thứ Ba, 16/01/2024, 00:00
- Quan hệ với người nhiễm HIV bao lâu thì bị bệnh? Thứ Ba, 16/01/2024, 00:00
- Dấu hiệu HIV ở nam: Phát hiện sớm tăng cơ hội điều trị Thứ Ba, 16/01/2024, 00:00
Các tin khác
- Gánh nặng về HIV ở thanh thiêu niên Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Campuchia ngày càng nhiều phụ nữ đã kết hôn nhiễm HIV Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Tâm sự cuộc đời Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Nơi ấy là tình người Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Chuyện về em Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Câu chuyện của tôi Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Người trở về Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Tôi bị nhiễm HIV từ lần quan hệ đầu tiên Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Bạn tôi mới ra đi vì AIDS Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Anh và tôi Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Nhân vật chính Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00
- Nhật ký của tôi Thứ Hai, 30/11/-0001, 00:00